Bỗng dưng bị xác định có rủi ro về thuế, doanh nghiệp buộc phải giải trình

Bỗng dưng bị xác định có rủi ro về thuế, doanh nghiệp buộc phải giải trình

Nguyễn Hoàng Hải(*) – Lê Thị Thủy(**)

Trong thời gian qua cơ quan thuế áp dụng công nghệ AI để quét dữ liệu của ngành thuế, từ đó phát hiện ra tình trạng chấp hành pháp luật về thuế của người nộp thuế, các trạng thái thường thấy đó là người nộp thuế nợ thuế, chưa hoàn tất thủ tục về thuế, không hoạt động tại địa chỉ đăng ký kinh doanh, có vi phạm về sử dụng hóa đơn,… dựa trên kết quả này cơ quan thuế phân loại và xác định người nộp thuế có rủi ro về thuế.

Mới đây Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 32/2025/TT-BTC(1), trong đó đề cập đến cách thức phân loại người nộp thuế có rủi ro về thuế, tuy nhiên khi áp dụng về thực tiễn đã vấp phải nhiều phản ứng từ nhiều doanh nghiệp. Theo các quy định này, nếu người đại diện theo pháp luật của một doanh nghiệp từng hoặc đang là đại diện của một doanh nghiệp khác có nợ thuế, bị cưỡng chế, ngừng hoạt động mà chưa hoàn tất thủ tục, hoặc từng có vi phạm về hóa đơn, thì doanh nghiệp mới mà người này đã tham gia với tư cách là người đại diện theo pháp luật cũng mặc nhiên bị coi là rủi ro về thuế. Điều đáng nói là nhiều doanh nghiệp trong trường hợp này hoàn toàn không có hành vi vi phạm pháp luật về thuế, quy định về hóa đơn, thậm chí có nhiều trường hợp vừa mới thành lập và chưa phát sinh giao dịch nào cả, nhưng vẫn phải gánh chịu hậu quả từ quá khứ của người đại diện theo pháp luật.

Điều đó không chỉ tạo ra cảm giác bất công, vô lý mà còn ảnh hưởng đến khả năng hoạt động bình thường của doanh nghiệp: không thể phát hành hóa đơn, không cho gia hạn chữ ký số, không nộp được tờ khai, thậm chí có nguy cơ bị khóa mã số thuế nên doanh nghiệp không hoạt động được. Trước tình huống đó doanh nghiệp buộc phải giải trình theo yêu cầu của cơ quan thuế, dựa trên kết quả giải trình cơ quan thuế xem xét mới cho hoặc không cho sử dụng hóa đơn, gia hạn chữ ký số, nộp tờ khai thuế.

Tự nhiên doanh nghiệp phải gánh hậu quả từ quá khứ của người khác

Thông tư 32/2025/TT-BTC đang tạo ra những tình huống trớ trêu, trong đó doanh nghiệp hoàn toàn trong sạch, không có vi phạm gì vẫn bị coi là “có rủi ro về thuế” chỉ vì người đại diện của mình từng có liên quan đến một pháp nhân khác đã vi phạm trong quá khứ. Đây không chỉ là sự bất hợp lý về mặt lý luận pháp lý, mà còn là gánh nặng thực sự cho những doanh nghiệp khác kể cả doanh nghiệp mới thành lập hoàn toàn chưa có vi phạm gì về thuế. Theo quy định của Luật Quản lý thuế, rủi ro về thuế là nguy cơ không tuân thủ pháp luật của người nộp thuế dẫn đến thất thu ngân sách nhà nước(2). Trên cơ sở đó ngành thuế cho rằng cá nhân đã từng là đại diện cho doanh nghiệp có vi phạm về thuế là người nộp có rủi ro về thuế, trong khi doanh nghiệp bị liên lụy hoàn toàn không có hành vi vi phạm, nên đây là sự suy đoán thiếu căn cứ, mâu thuẩn và đi ngược lại với nguyên tắc quản lý thuế là căn cứ “bản chất hoạt động, giao dịch của người nộp thuế quyết định nghĩa vụ thuế”(3). Hậu quả của sự “mặc định liên đới” này vô cùng nghiêm trọng. Doanh nghiệp mới, vốn chưa hề có vi phạm nào, lại phải gánh chịu hệ quả từ một quá khứ của người đại diện theo pháp luật.

Liệu có công bằng hay không khi một pháp nhân hoàn toàn độc lập lại bị liên đới trách nhiệm bởi hành vi của một pháp nhân khác? Bộ luật Dân sự 2015(4) quy định pháp nhân có tài sản riêng, độc lập với tài sản của chủ sở hữu và tự chịu trách nhiệm trong quan hệ pháp luật, điều này đã khẳng định nguyên tắc pháp nhân độc lập về mặt tài sản và trách nhiệm của pháp nhân.

Cá nhân không thể chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân

Luật Doanh nghiệp 2020(5) cũng quy định rõ về trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật, trong đó người đại diện theo pháp luật chịu trách nhiệm đối với những hành vi do các nhân họ thực hiện chứ không thể chịu trách nhiệm thay cho doanh nghiệp. Giả sử doanh nghiệp nợ thuế, vi phạm pháp luật về thuế, vi phạm về hóa đơn chứng từ thì tùy theo mức độ mà có các chế tài từ xử lý hành chính đến mức độ nặng hơn là xử lý hình sự. Pháp luật hiện nay không có quy định nào cho thấy người đại diện chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân. Việc áp dụng quy định như hiện nay chẳng khác nào “trói” một doanh nghiệp khác vào cái bóng quá khứ của doanh nghiệp cũ mà giữa hai doanh nghiệp này chẳng có mối quan hệ trách nhiệm với nhau, một doanh nghiệp làm sai buộc doanh nghiệp khác phải chịu rõ ràng là theo kiểu “quýt làm cam chịu chịu”.

Đối với doanh nghiệp vi phạm pháp luật về thuế thì trách nhiệm thuộc về doanh nghiệp, bởi doanh nghiệp (trừ doanh nghiệp tư nhân) là pháp nhân nên có tài sản, tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân, pháp nhân khác tham gia góp vốn hình thành nên pháp nhân đó và chính vì thế pháp nhân tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của chính mình(6). Buộc người đại diện theo pháp luật doanh nghiệp chịu trách nhiệm thay cho doanh nghiệp là không hợp lý, chẳng khác nào buộc cá nhân chịu trách nhiệm thay cho pháp nhân. Trong khi đó cá nhân đại diện cho doanh nghiệp là để thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách người yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền, nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật(7). Có lẽ cơ quan thuế nhầm lẫn giữa trách nhiệm của cá nhân người đại diện theo pháp luật và trách nhiệm của doanh nghiệp. Điều này đi ngược với tinh thần của Nghị quyết 198 về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân đó là “phân định rõ giữa trách nhiệm của pháp nhân với trách nhiệm của cá nhân trong xử lý vi phạm”(8).

Yêu cầu giải trình doanh nghiệp giải trình là “đẻ thêm” thủ tục, tạo ra nhũng nhiễu tiêu cực

Một trong những điểm gây bức xúc lớn nhất cho doanh nghiệp chính là thủ tục giải trình khi bị cơ quan thuế xếp loại rủi ro, tại sao phải giải trình? Doanh nghiệp nào làm thì doanh nghiệp ấy phải tự chịu trách nhiệm chứ sao lại bắt doanh nghiệp khác giải trình, bản thân doanh nghiệp ấy họ không có gì vi phạm về thuế, hóa đơn, kế toán thì họ phải giải trình như thế nào đây? Trách nhiệm quản lý thuế thuộc cơ quan thuế, do đó cơ quan thuế phải biết mức độ tuân thủ pháp luật về thuế của doanh nghiệp và trên cơ sở đó cứ theo quy định mà xử lý các hành vi liên quan (nếu có).

Vấn đề lớn hơn nằm ở cơ sở pháp lý của thủ tục này. Nếu đối chiếu với các quy định hiện hành thì không có quy định nào buộc giải trình là điều kiện bắt buộc để được phát hành hóa đơn điện tử, gia hạn chữ ký số và đủ điều kiện thực hiện các thủ tục khác về thuế. Nói cách khác, thủ tục này là một “sáng tạo” hành chính được bổ sung thêm, vượt ra ngoài khuôn khổ mà luật đã quy định của cơ quan thuế.

Tác động của quy định này không hề nhỏ. Trong bối cảnh Chính phủ nhiều lần nhấn mạnh mục tiêu cải cách hành chính, cắt giảm ít nhất 20% thủ tục và chi phí tuân thủ cho doanh nghiệp(9), thì việc áp đặt thêm một thủ tục gấp gáp và nặng nề lại càng mâu thuẫn. Thay vì giảm bớt gánh nặng, cơ quan quản lý vô tình tạo thêm một vòng xoáy mới, khiến doanh nghiệp mất thời gian, công sức, thậm chí mất cả cơ hội kinh doanh để mất thời gian và công sức giải trình theo yêu cầu hết sức vô lý của cơ quan thuế.

Chưa kể việc doanh nghiệp giải trình chưa hẳn đã được cơ quan thuế chấp nhận, việc chấp nhận nội dung giải trình để rồi cho doanh nghiệp phát hành hóa đơn, đăng ký gia hạn chữ ký số hay không mang tính tùy nghi, đôi khi phụ thuộc vào ý chí của công chức thuế. Điều này rất dễ phát sinh tiêu cực, nếu doanh nghiệp “biết điều” thì mọi việc trơn tru còn không ngược lại thì doanh nghiệp sẽ đối diện với những rào cản trong hoạt động của mình.

Thủ tục giải trình không chỉ gây phiền hà cho doanh nghiệp, mà còn đặt ra câu hỏi về tính hợp pháp và tính hợp lý của quy định này. Nó phản ánh một cách tiếp cận quản lý nặng về hành chính, trong khi chủ trương số hóa trong hoạt động quản lý nhà nước.

Đề nghị

Từ những bất cập nêu trên, để chính sách quản lý rủi ro về thuế vừa đảm bảo mục tiêu quản lý thuế, vừa bảo đảm quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, cần có những điều chỉnh căn cơ và hợp lý hơn.

Trước hết, Bộ Tài chính cần sửa đổi, bổ sung Thông tư 32/2025/TT-BTC theo hướng khẳng định rõ nguyên tắc “pháp nhân độc lập, trách nhiệm độc lập”. Một doanh nghiệp không thể bị coi là có rủi ro về thuế chỉ vì người đại diện theo pháp luật từng có liên quan đến doanh nghiệp khác đã vi phạm. Đây là vấn đề mang tính nền tảng của pháp luật dân sự và doanh nghiệp, nếu không được tôn trọng sẽ dẫn đến hệ quả là sự suy đoán vô căn cứ và xâm phạm nghiêm trọng quyền tự do kinh doanh.

Thứ hai, việc phân loại rủi ro phải dựa trên hành vi thực tế và dữ liệu minh chứng cụ thể của người nộp thuế trực tiếp có hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Ứng dụng công nghệ và trí tuệ nhân tạo (AI) trong quản lý thuế là hướng đi đúng, nhưng kết quả phân tích chỉ nên có giá trị cảnh báo, hỗ trợ cho quá trình kiểm tra, chứ không được xem là căn cứ pháp lý để hạn chế hoạt động của doanh nghiệp.

Thứ ba, cần nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm của cơ quan thuế trong toàn bộ quy trình đánh giá rủi roNgành thuế là chủ thể có quyền và nghĩa vụ xác minh, đối chiếu, nên việc giải thích, chứng minh rủi ro thuộc về cơ quan thuế, không thể yêu cầu doanh nghiệp giải trình vì như thế là chuyển gánh nặng này sang cho doanh nghiệp – đặc biệt khi doanh nghiệp không có hành vi vi phạm. Yêu cầu doanh nghiệp không có hành vi vi phạm giải trình mới cho phát hành hóa đơn, đăng ký, gia hạn chữ ký số, làm các thủ tục khác về thuế là gây phiền hà và làm phát sinh thêm điều kiện kinh doanh, đi ngược với chủ trương chính sách hiện nay. Bởi lẽ, mục tiêu cuối cùng của chính sách thuế không chỉ là thu đúng, thu đủ, mà còn phải tạo dựng một môi trường kinh doanh lành mạnh, nơi mọi cá nhân đều có cơ hội khởi nghiệp, mọi doanh nghiệp đều có cơ hội phát triển, và từ đó toàn bộ nền kinh tế mới có thể vận hành theo hướng bền vững và thịnh vượng.


(1) Điều 9 Thông tư số 32/2025/TT-BTC

(2) Khoản 14 Điều 3 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH15

(3) Khoản 4 Điều 5 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH15

(4) Điều 74 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13

(5) Điều 13 Luật Doanh nghiệp số 68/2020/QH15

(6) Điểm c Điều 74 Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH14

(7) Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 luật Doanh nghiệp số 59/2020/QH15

(8) Khoản 1 Điều 5 Nghị quyết số 198/2025/QH15

(9) Nghị quyết số 66/NQ-CP

_____________________________

(*) Luật sư điều hành Công ty luật Credent

(**) Giám đốc Công ty tư vấn và kế toán Đông Dương

Chưa có đánh giá

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Anh Chị

Bài viết liên quan